Tại cuộc họp báo này, người đứng đầu Chính phủ Việt Nam đã nói rõ: “Chủ
quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong
muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển. Nhất định Việt Nam không chấp nhận đánh đổi điều
thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào
đó”. Điều Thủ tướng nói chính là điều thuộc về ý nguyện của nhân dân.
Việt Nam xác nhận chủ quyền ở Trường Sa và Hoàng Sa tại San Francisco 1951
Năm 1937, bất chấp sự phản đối của Pháp, Nhật chiếm các đảo nằm ngoài khơi
Đông Dương, đổi tên thành Shinnan Gunto (Tân Nam Quần Đảo) và đặt dưới quyền
tài phán của Cao Hùng (Đài Loan). Trong suốt thời gian Thế chiến II, các quần đảo
bị Nhật tuyên bố là bị chiếm đóng.
Năm 1938, Pháp cho đặt bia đá, xây hải đăng, đài khí tượng và đưa đội biên
phòng người Việt ra để bảo vệ đảo Pattle (đảo Hoàng Sa) của quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1945, Nhật Bản thua trận rút khỏi Đông Dương. Pháp khôi phục lại sự có
mặt của mình tại Hoàng Sa vào tháng 6-1946. Pháp trở lại đảo An Vĩnh, nhưng phải
rút vì lý do chi viện cho chiến cuộc đang căng thẳng ở Bắc Việt Nam.
Suốt chiều dài lịch sử cho đến tận năm 1945, ngoài nỗ lực thị uy của chính
quyền Quảng Đông năm 1909, Trung Quốc không hề có sự chiếm cứ thực sự, liên tục
hay sự quản lý hành chính thực tế nào trên các đảo ở biển Đông.
Cuối năm 1946, Trung Quốc đưa quân chiếm đóng đảo Ba Bình (quần đảo Trường
Sa), sau khi Pháp đặt bia chủ quyền ở đó.
Tháng 1-1947, Trung Quốc (lúc đó là quân của Tưởng Giới Thạch) đổ bộ lên
đảo Woody (Phú Lâm) của quần đảo Hoàng Sa. Pháp lập tức phản đối việc chiếm hữu
trái phép này của Trung Quốc và cử một phân đội ra quần đảo Hoàng Sa, lập đồn
binh và xây trạm khí tượng. Các trạm khí tượng này hoạt động trong suốt 26 năm
với những nhân viên Việt Nam cần mẫn cho đến khi Trung Hoa đại lục cưỡng chiếm
bằng quân sự vào năm 1974.
Ngày nay thông tin về khí tượng thủy văn phát đi từ Hoàng Sa vẫn được
toàn thế giới biết đến với danh nghĩa một trạm khí tượng của một hòn đảo nhiệt
đới Việt Nam. Hai bên đàm phán tại Paris.
Cũng năm 1947, Pháp đề nghị đưa vấn đề tranh chấp ra Trọng tài quốc tế nhưng
Trung Hoa từ chối.
Tháng 10-1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, Chính phủ Trung Hoa Dân
quốc chạy ra Đài Loan. Tháng 5-1950, quân đội Quốc dân Đảng phải rút khỏi các đảo
Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa) và Ba Bình (quần đảo Trường Sa). Các trại đồn trú của
Pháp vẫn được tiếp tục duy trì ở Hoàng Sa.
Ngày 14-10-1950, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho Chính phủ Bảo
Đại quyền quản lý quần đảo này. Thủ hiến Trung phần Việt Nam lúc bấy giờ
là Phan Văn Giáo đã chủ tọa việc chuyển giao quyền hành quản lý quần đảo Hoàng
Sa. Thời điểm này diễn ra một sự kiện quan trọng, đó là hội nghị được tổ chức tại
San Francisco, California (Mỹ) giữa lực lượng Đồng minh và
Nhật Bản.
Hội nghị San Francisco diễn ra từ ngày 5-9 đến 8-9-1951, có phái đoàn của
51 quốc gia tham dự để thảo luận về vấn đề chấm dứt chiến tranh tại châu Á -
Thái Bình Dương và mở ra quan hệ với Nhật Bản thời hậu chiến. Trong hội nghị
này, Trung Hoa Đại lục và Trung Hoa Dân quốc không được mời tham dự do giữa Mỹ
và Liên Xô không thống nhất được ai là người đại diện chính thức cho quyền lợi
của Trung Hoa.
Ngày 5-9-1951, Ngoại trưởng Liên Xô Gromyko đã đề nghị 13 khoản tu chính.
Trong đó, có khoản tu chính liên quan đến việc Nhật Bản nhìn nhận chủ quyền của
Trung Hoa đại lục đối với đảo Hoàng Sa. Hội nghị bác bỏ với 48 phiếu chống và 3
phiếu thuận. Danh nghĩa chủ quyền Trung Quốc đối với các quần đảo ngoài khơi biển
Đông đã bị cộng đồng quốc tế bác bỏ rõ ràng trong khuôn khổ của một hội nghị quốc
tế.
Ngày 7-9-1951, cũng tại hội nghị, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu
của Chính phủ Bảo Đại đã long trọng tuyên bố, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa là lãnh thổ của Việt Nam: “Cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để
dập tắt các mầm mống tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ
lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”.
Kết thúc hội nghị là việc ký kết Hòa ước với Nhật ngày 8-9-1951. Trong
hòa ước này, ở Điều 2, đoạn 7, ghi rõ: “Nhật Bản khước từ mọi chủ quyền và đòi
hỏi đối với tất cả các lãnh thổ mà họ chiếm bằng vũ lực trong Thế chiến II,
trong số đó có các đảo Trường Sa và Hoàng Sa”. 50 phái đoàn yên lặng nghe lời
tuyên bố của phái đoàn Việt Nam,
không quốc gia nào phản đối.
Trung Quốc đại lục sau đó đã phản ứng bằng cách tuyên bố bảo lưu yêu sách
của họ đối với các quần đảo qua tuyên bố của bộ trưởng ngoại giao Chu Ân Lai
ngày 15-8-1951. Nhưng chính quyền Tưởng Giới Thạch thì không phản ứng gì. Lúc
đó, đa số các nước vẫn công nhận chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch
là đại diện chính thức cho Trung Quốc.
Sau Hội nghị San Francisco,
2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vẫn do chính quyền Bảo Đại quản lý. Đến năm
1954, 2 quần đảo này được đặt dưới sự quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng
hòa.
Tháng 4-1956, quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, đội tuần tra
của Pháp trên đảo Hoàng Sa được thay thế bởi đội tuần tra của chính phủ Việt
Nam Cộng hòa. Nhưng khi đó chính quyền Trung Quốc đại lục đã bí mật cho quân đổ
bộ chiếm phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa (cụm An Vĩnh, tiếng Anh:
Amphitrite Group. Trong khi phía Tây, nhóm Lưỡi Liềm, còn gọi là Nguyệt thiềm
(tiếng Anh: Crescent Group) vẫn do quân đội Việt Nam đóng trên đảo Pattle nắm giữ.
Ngày 1-6-1956, ngoại trưởng Việt Nam Cộng hòa Vũ Văn Mẫu xác nhận lại chủ quyền
của Việt Nam
trên cả hai quần đảo. Ngày 22-8-1956, một đơn vị hải quân của Việt Nam Cộng hòa
cắm cờ trên quần đảo Trường Sa và dựng bia đá.
Trung Quốc trắng trợn vi phạm tuyên ngôn 1970 của Đại Hội Đồng
Liên Hợp Quốc
Ngày 4-9-1958, Trung Quốc ra tuyên bố về hải phận 12 hải lý, áp dụng cho
cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 1961, quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của tỉnh Quảng Nam. Năm 1973,
thuộc tỉnh Phước Tuy.
Tháng 1-1974, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm các đảo do quân đội Việt Nam Cộng
hòa đóng, hàng chục sĩ quan và binh sỹ Sài Gòn hy sinh, Trung Quốc chiếm toàn bộ
quần đảo Hoàng Sa. Nghĩa là kể từ 1974, trong vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, Việt Nam đã bị tước mất yếu tố vật chất (Corpus),
nhưng chủ quyền của Việt Nam
vẫn không bị gián đoạn do được đảm bảo bằng yếu tố tinh thần (Animus).
Tháng 12-1982, huyện Hoàng Sa trực thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng được
thành lập. Nhưng điều quan trọng hơn, theo luật quốc tế, từ đầu thế kỷ XX việc
dùng vũ lực để chinh phục một lãnh thổ đã bị lên án và không được chấp nhận.
Đối với quần đảo Trường Sa, cho đến thời điểm tháng 1-1974 Trung Quốc không
có khả năng gây ảnh hưởng đối với khu vực quần đảo Trường Sa, chứ chưa nói gì đến
chuyện kiểm soát nó. Tháng 2-1988, Trung Quốc đưa quân đội đến chiếm một số đảo
trên quần đảo Trường Sa.
Năm 1975, Việt Nam thống
nhất, quân đội Nhân dân Việt Nam
thay thế quân đội Việt Nam Cộng hòa tại quần đảo Trường Sa. Năm 1977, Việt Nam ra tuyên bố
lãnh hải đất nước, kể cả lãnh hải của các đảo. Trong thời gian này, nhiều quốc
gia khác cũng đã chiếm một số đảo của quần đảo Trường Sa.
Tháng 3-1988, lần đầu tiên Trung Quốc có mặt trên quần đảo Trường Sa bằng
cách đưa quân tới xâm lược bãi đá Cô Lin, Len Đao và Gạc Ma, do ba bãi đá này
không có quân đội đồn trú nên Hải quân Việt Nam phải đưa quân ra bảo vệ.
Ngày 11-3-1988, tàu HQ 604 (Lữ đoàn 125) của thuyền trưởng Vũ Phi Trừ xuất
phát từ Cam Ranh với 70 bộ đội công binh của Trung đoàn 83 và 22 bộ đội của Lữ
đoàn 146 ra xây dựng cụm đảo Gạc Ma. Khi đang chuyển vật liệu lên đảo thì ba
tàu chiến Trung Quốc áp sát, giật cờ, nã súng xâm chiếm đảo Gạc Ma trái phép.
Sau đó, tàu Trung Quốc tiếp tục tấn công tàu HQ 605 đang bảo vệ và xây dựng
đảo Len Đao và tàu HQ 505 canh giữ Cô Lin. Trận xung đột đã làm hai tàu của Việt
Nam bị chìm, một tàu hỏng, 64 sỹ quan và chiến sĩ hy sinh, 9 người bị phía
Trung Quốc bắt làm tù binh. Trung Quốc còn chặn không cho tàu mang cờ Chữ Thập
Đỏ ra cứu hộ. Trung Quốc bị hư hại tàu chiến, thương vong 24 thủy binh. Kể từ
đó Trung Quốc chiếm đóng Gạc Ma.
Tháng 4-1988, Trung Quốc thành lập tỉnh thứ 33 bao gồm đảo Hải Nam và
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng 5-1989, Trung Quốc chiếm thêm một đảo nhỏ trên quần đảo Trường Sa.
Năm 1990, Trung Quốc đề nghị khai thác chung quần đảo Trường Sa.
Năm 1992, Trung Quốc chiếm thêm một số đảo nữa.
Năm 1994, đụng độ giữa Việt Nam và một chiếc tàu Trung Quốc
nghiên cứu cho Công ty Crestone.
Tháng 2-1995, Trung Quốc chiếm bãi đá Vành Khăn, một đảo đá nhỏ do Philippines quản
lý trên quần đảo Trường Sa.
Hiện nay Trung Quốc kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.
Những sự kiện vừa dẫn ra ở trên cho thấy ý đồ và bước đi của nhà cầm quyền
Trung Quốc trong nhiều thế kỷ qua đã diễn ra theo một logic đáng ngại cho hòa
bình và công pháp quốc tế.
Nhưng không dừng ở đó, tháng 5-2014 Trung Quốc đã đưa giàn khoan khổng lồ
Haiyang Shiyou 981 cùng với hàng chục máy bay chiến đấu, hàng trăm tàu bán quân
sự và quân sự vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Thực chất đây là một cuộc xâm lăng với tất cả các dấu hiệu vừa “cổ điển”
vừa chưa có tiền lệ của nó. Cổ điển vì đã vượt biên giới, có vũ khí, hành động
đơn phương với mưu đồ cưỡng chiếm lãnh thổ và thôn tính dài lâu. Nhưng lại chưa
có tiền lệ vì sử dụng “lãnh thổ di động”, chưa nổ súng và có thể không nổ súng
nhưng vẫn có khả năng biến lãnh thổ quốc gia khác thành vùng tranh chấp rồi mới
cưỡng đoạt. Giấc mộng Trung Hoa trên thực tế đã dần trút bỏ “lá nho che đậy
không kém phần trơ trẽn” của nó.
Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 24-10-1970 ghi rõ: “Lãnh
thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm đóng quân sự, kết
quả của việc sử dụng vũ lực trái với các điều khoản của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Lãnh thổ của một quốc gia không thể là một đối tượng thụ đắc bởi một quốc gia
khác do đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ
nào bằng sự đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực đều là bất hợp pháp”. Do
đó, các hành động dùng vũ lực trái ngược với luật quốc tế của Trung Quốc không
thể mang lại danh nghĩa pháp lý cho nước này đối với quần đảo Hoàng Sa.
Theo tienphong.vn
|